Bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ quyền tác giả nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng trở nên quan trọng là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Vấn đề thời gian bảo hộ quyền tác giả là một vấn đề được quan tâm bởi nó xác định thời hạn mà tác giả, chủ sở hữu có các độc quyền với tác phẩm. Qua bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ thời hạn bảo hộ đối với các nhóm quyền của quyền tác giả:
- Quyền tác giả là gì?
Khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.”
Theo đó, quyền tác giả có chủ thể quyền là tổ chức, cá nhân và đối tượng quyền là “tác phẩm” do cá nhân, tổ chức sáng tạo ra hoặc sở hữu. Khái niệm “Tác phẩm” được hiểu là sản phẩm có tính sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được thể hiện bằng bất cứ phương tiện nào hoặc hình thức nào.
- Các quyền của tác giả được bảo hộ
- Nhóm quyền nhân thân: yếu tố nhân thân là yếu tố gắn liền với con người – cụ thể là quyền gắn với tác giả – người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Tác giả có các quyền nhân thân sau:
Quyền được đặt tên cho tác phẩm. Quyền đặt tên cũng là một trong số những quyền không thể chuyển giao;
Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm của mình. Tác giả được nêu tên thật hoặc sử dụng bút danh cá nhân khi tác phẩm được công bố, được sử dụng. Tương tự như quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên trên tác phẩm là quyền nhân thân không thể chuyển giao;
Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép cá nhân, tổ chức khác công bố tác phẩm. Công bố tác phẩm là truyền đạt đến công chúng tác phẩm của mình. Quyền công bố tác phẩm là quyền nhân thân duy nhất có thể chuyển giao cho cá nhân, tổ chức khác khi được sự đồng ý của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm;
Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Bất cứ hành vi nào sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm với ý đồ xấu đều là hành vi vi phạm quyền tác giả.
- Nhóm quyền tài sản: Nếu nhóm quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác (ngoại trừ quyền công bố tác phẩm) thì nhóm quyền tài sản là nhóm quyền có thể chuyển giao. Nhóm quyền tài sản bao gồm:
Quyền làm tác phẩm phái sinh. “Phái sinh” là cái có sau, được xây dựng và phát triển trên những nội dung đã có trước đó. “Tác phẩm phái sinh” là tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, hoặc có thể là tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, chú giải, tuyển chọn, biên soạn.. Một lưu ý với tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu tác phẩm đó không phương hại đến quyền tác giả với tác phẩm gốc;
Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
Quyền sao chép tác phẩm;
Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao của tác phẩm;
Quyền truyền đạt đến công chúng thông qua các trường trình, mạng thông tin,..
Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao đối với tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
- Thời gian bảo hộ quyền tác giả
Quyền tác giả có thể được bảo hộ vô thời hạn hoặc có thời hạn phụ thuộc vào quyền cụ thể. Tương ứng 2 nhóm quyền nhân thân và quyền tài sản, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được bảo hộ như sau:
- Bảo hộ vô thời hạn, đối với các quyền nhân thân sau:
Quyền đặt tên cho tác phẩm.
Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm của mình.
Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
- Bảo hộ có thời hạn đối với Quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản, cụ thể:
Bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên đối với Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh.
Một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình áp dụng đối với: Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình;
Suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết: Áp dụng đối với tác phẩm khuyết danh khi có thông tin tác giả xuất hiện và các loại hình tác phẩm còn lại.
Trường hợp có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm mà đồng tác giả cuối cùng chết.
Mốc thời gian để xác định thời điểm chấm dứt quyền tác giả là 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.