T6, 07 / 2021 4:57 chiều | minhanhqn

Để được công nhận quyền sở hữu hợp pháp đối với nhãn hiệu này thì chủ sở hữu cần tiến hành thủ tục đăng ký nhãn hiệu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cấp văn bằng bảo hộ. Vậy chủ thể nào có quyền thực hiện thủ tục đó? Cá nhân có thể đăng ký bảo hộ nhãn hiệu được không?

Cá nhân có được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu?
  1. Chủ thể là cá nhân có thể đăng ký bảo hộ nhãn hiệu

Thông thường, chủ đơn đăng ký nhãn hiệu chủ yếu là những doanh nghiệp, mục đích là sử dụng tên gọi, logo trong những lĩnh vực, ngành nghề mà doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh. Bên cạnh đó, các cá nhân cũng có quyền đăng ký nhãn hiệu cho mình:

Điều 87 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về quyền đăng ký nhãn hiệu:

  1. Tổ chức,cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.
  2. Tổ chức,cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó

Như vậy, cơ chế bảo hộ nhãn hiệu không bị giới hạn ở việc chủ sở hữu (chủ đơn đăng ký), cá nhân hoàn toàn có quyền đăng kí nhãn hiệu cho mình theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Không phân biệt cá nhân hay tổ chức mới là chủ thể có quyền nộp đơn, miễn là hàng hóa, dịch vụ đó do cá nhân sản xuất hoặc cung cấp thì có thể đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.

Có thể thây có 3 trường hợp cá nhân có thể tiến hành nộp đơn đăng ký nhãn hiệu cho riêng mình như sau:

  • Cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hóa do mình sản xuất hoặc dịch vụ do mình cung cấp.
  • Cá nhân tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm và không phản đối việc đăng ký đó.
  • Trường hợp nhãn hiệu đó thuộc quyền sở hữu của nhiều người thì một cá nhân muốn đại diện các chủ sở hữu còn lại thực hiện thủ tục đăng ký thì phải có sự đồng ý của các chủ sở hữu còn lại.

Người nước ngoài muốn đăng ký nhãn hiệu sẽ được chia làm 2 trường hợp:

  • Cá nhân nước ngoài có thường trú tại Việt Nam hoặc có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam thì có thể nộp trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp tại Việt Nam.
  • Cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam hoặc cá nhân nước ngoài không có cơ sở sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam thì phải thông qua tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp là những tổ chức hành nghề SHTT đã được Cục SHTT cấp giấy phép hoạt động.
  1. Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu

Bên cạnh yêu cầu về chủ thể, để nhãn hiệu có thể được bảo hộ thì nhãn hiệu đó phải đáp ứng những điều kiện khác như:

Điều 72 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:

“Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

  1. Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc.
  2. Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.”

Thứ nhất, nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được.  Pháp luật Việt Nam chỉ bảo hộ những nhãn hiệu có thể nhận biết bằng thị giác. Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ, hình hoặc kết hợp chữ và hình, có thể thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.

Thứ hai, nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu với hàng hoá, dịch vục của các chủ thể khác. Theo khoản 1 Điều 74 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 74 Điều này.  Nhãn hiệu phải có khả năng tự phân biệt và không trùng hoặc gây nhầm lẫn với đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của người khác, được quy định chi tiết tại khoản 2 Điều 74 của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Ngoài ra, để được bảo hộ, nhãn hiệu không được thuộc các đối tượng được nêu tại Điều 73 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) như sau:

“Các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:

  1. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ,quốc huy của các nước;
  2. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng,cờ,huy hiệu,tên viết tắt,tên đầy đủ của cơ quan nhà nước,tổ chức chính trị,tổ chức chính trị – xã hội,tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp,tổ chức xã hội,tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế,nếu không được cơ quan,tổ chức đó cho phép;
  3. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật,biệt hiệu,bút danh,hình ảnh của lãnh tụ,anh hùng dân tộc,danh nhân của Việt Nam,của nước ngoài;
  4. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận,dấu kiểm tra,dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng,trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận;
  5. Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ”.
Bài viết cùng chuyên mục