Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh khốc liệt, để có thể đứng vững trên thị trường, doanh nghiệp cần phải tạo ra cho mình các loại hàng hóa và dịch vụ mới, đặc biệt so với các sản phẩm khác. Bí mật kinh doanh về các sản phẩm, dịch vụ, cách thức hoạt động… của doanh nghiệp là yếu tố vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp. Bài viết sau đây sẽ giúp quý khách hiểu rõ hơn về bí mật kinh doanh và cách bảo vệ bí mật kinh doanh.
- Khái niệm
Bí mật kinh doanh (hay còn được biết đến là bí mật thương mại) là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
Chủ sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh doanh một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh mà bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được trong khi thực hiện công việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu của bên thuê hoặc bên giao việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Thông tin được coi là bí mật kinh doanh khi có các đặc điểm sau đây:
– Tính bí mật: thể hiện qua phạm vi người biết đến thông tin hạn chế và thông thường có kèm theo cam kết bảo mật;
– Tính giá trị: Bí mật này thể hiện qua khoản tiền, số vốn đầu tư mà người có được thông tin đã bỏ ra để tạo ra nó hoặc có được thông tin đó; thể hiện qua khoản lợi mà chủ sở hữu thu được khi biết và sử dụng thông tin hay sự thiệt hại mà chủ sở hữu phải gánh chịu khi thông tin này bị rò rỉ hoặc bị người khác tiết lộ;
– Hữu ích trong hoạt động kinh doanh: Thông tin này phải có tính năng sử dụng thực tế, phải tạo ra sản phẩm về mặt vật chất trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
- Điều kiện đăng ký bảo hộ bí mật kinh doanh
Theo quy định tại Điều 84, 85 Luật sở hữu trí tuệ thì để được bảo hộ dưới hình thức bí mật kinh doanh thì thông tin bí mật đó phải đáp ứng đồng thời các điều kiện sau đây:
– Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;
– Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó;
– Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
– Những thông tin không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh:
+ Bí mật về nhân thân;
+ Bí mật về quản lý nhà nước;
+ Bí mật về quốc phòng, an ninh;
+ Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.
- Bảo hộ bí mật kinh doanh
Theo quy định tại Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.
Theo đó, khác với các đối tượng khác của quyền sở hữu công nghiệp như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý…, quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập một cách hiển nhiên mà không cần phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.
Bí mật kinh doanh không nên được đăng ký bảo hộ dưới hình thức sáng chế bởi một trong những điều kiện bảo hộ hình thức sáng chế là “có khả năng áp dụng công nghiệp”.
Trong khi đó, bí mật kinh doanh là thông tin bí mật được đúc rút từ trí tuệ và cả quá trình kinh doanh của một cá nhân, doanh nghiệp. Nếu như giải trình tính “có khả năng áp dụng công nghiệp” tức là sẽ phải giải trình công khai về bí mật kinh doanh nà, dẫn đến đánh mất đi giá trị sản phẩm và giá trị của chính doanh nghiệp.
- Hạn chế quyền của chủ sở hữu bí mật kinh doanh
Chủ sở hữu bí mật kinh doanh không có quyền cấm người khác thực hiện các hành vi sau đây:
– Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh thu được khi không biết và không có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được một cách bất hợp pháp;
– Bộc lộ dữ liệu bí mật nhằm bảo vệ công chúng;
– Sử dụng dữ liệu bí mật không nhằm mục đích thương mại;
– Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra một cách độc lập;
– Bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra do phân tích, đánh giá sản phẩm được phân phối hợp pháp với điều kiện người phân tích, đánh giá không có thoả thuận khác với chủ sở hữu bí mật kinh doanh hoặc người bán hàng.